Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã thống nhất cao thông qua nhiều nội dung quan trọng

|
Lượt xem:
Cỡ chữ: A- A A+

Từ ngày 02/10 đến ngày 08/10/2023, tại Thủ đô Hà Nội, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã họp, cho ý kiến và thống nhất cao thông qua một số nội dung quan trọng, trong đó có: (1) Báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2023, kế hoạch năm 2024; kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2024 - 2026 và lộ trình thực hiện chế độ tiền lương mới. (2) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (3) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Từ ngày 01/7/2024, thực hiện phương án cải cách chính sách tiền lương đối với khu vực công theo Nghị quyết số 27-NQ/TW.

(1) Tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2023, kế hoạch năm 2024; kế hoạch tài chính - ngân sách nhà nước 3 năm 2024 - 2026 và lộ trình thực hiện chế độ tiền lương mới.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất ban hành Kết luận về tình hình kinh tế - xã hội năm 2023 - 2024; xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu những tháng cuối năm 2023 là:

Tiếp tục thực hiện nhất quán mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng và bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; chủ động cập nhật các kịch bản về tăng trưởng, lạm phát, các cân đối lớn để phục vụ chỉ đạo, điều hành; bảo đảm cung ứng các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là điện, xăng, dầu.

Thực hiện chính sách tiền tệ thận trọng, chắc chắn, bảo đảm tính chủ động, linh hoạt, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hoà với điều hành chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả và các chính sách khác. Thúc đẩy tăng thu ngân sách nhà nước, kiểm soát chi chặt chẽ, tiết kiệm triệt để các khoản chi thường xuyên, chi sự nghiệp có tính chất đầu tư; đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công. Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, 3 Chương trình mục tiêu quốc gia.

Tập trung rà soát hoàn thiện thể chế chính sách pháp luật để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh; xử lý triệt để những tồn tại, hạn chế, vướng mắc kéo dài. Phát triển toàn diện và đồng bộ các lĩnh vực văn hoá, bảo đảm gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá. Làm tốt công tác an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo đảm đời sống người dân, người lao động, thực hiện tốt các chính sách dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, người cao tuổi.

Bảo đảm quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hội nhập quốc tế; tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội; tiếp tục xây dựng hoàn thiện bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đẩy mạnh cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.

Về mục tiêu chủ yếu năm 2024, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP từ 6 - 6,5% và tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng bình quân khoảng 4 - 4,5%; dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2024 tăng khoảng 2% so với thực hiện năm 2023 để ưu tiên tăng chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương và địa phương.

Về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024: Thực hiện chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, bảo đảm hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, hiệu quả với chính sách tiền tệ; có giải pháp huy động đủ nguồn lực để thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước; kiểm soát chặt chẽ bội chi ngân sách nhà nước, nợ công. Đẩy mạnh công tác quản lý thu, nguồn thu, mở rộng cơ sở thu; thực hiện quyết liệt, hiệu quả các giải pháp chống thất thu, chuyển giá, gian lận thương mại, các hoạt động thương mại dựa trên nền tảng số, quản lý chặt chẽ hoàn thuế; đôn đốc thu hồi các khoản nợ đọng thuế, giảm tỉ lệ nợ đọng thuế.

Điều hành chi ngân sách nhà nước theo dự toán, bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, các khoản chi chưa thực sự cần thiết bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, hỗ trợ phục hồi kinh tế. Tiếp tục thực hiện các giải pháp quản lý, điều hành chặt chẽ giá các hàng hoá quan trọng, dịch vụ sự nghiệp công, nhất là giá xăng dầu. Bảo đảm sự vận hành ổn định, an toàn của thị trường tài chính và dịch vụ tài chính.

Về cải cách tiền lương: Từ ngày 01/7/2024, thực hiện phương án cải cách chính sách tiền lương đối với khu vực công theo Nghị quyết số 27-NQ/TW; từ năm 2025 trở đi tiếp tục điều chỉnh tiền lương tăng bình quân 7%/năm đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang cho đến khi mức lương thấp nhất đạt bằng hoặc cao hơn mức lương thấp nhất vùng I của khu vực doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp, năm 2024 và các năm tiếp theo, tiếp tục điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng theo quy định; xây dựng chính sách tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với doanh nghiệp nhà nước theo Nghị quyết số 27-NQ/TW và quy định của pháp luật.

(2) Tổng kết 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá tình hình 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 12/3/2003 và thống nhất ban hành Nghị quyết mới với tên gọi Tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Đồng thời xác định quan điểm chỉ đạo: Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của Đảng; là nguồn sức mạnh, là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền tảng vững chắc của đại đoàn kết dân tộc là liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo; là mối quan hệ bền chặt giữa Đảng và Nhân dân, là niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; là đoàn kết giữa các giai tầng xã hội, giữa cộng đông các dân tộc Việt Nam, giữa đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa những người theo các tôn giáo khác nhau, giữa người Việt Nam ở trong và ngoài nước; là đoàn kết giữa Nhân dân Việt Nam và nhân dân yêu chuộng hoà bình, tiến bộ trên thế giới.

Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và khát vọng xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao làm điểm tương đồng, động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân hướng tới tương lai vì hạnh phúc của mọi người dân Việt Nam.

Gắn đại đoàn kết toàn dân tộc với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tôn trọng quyền con người, quyền công dân, thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích trong xã hội; lấy lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm của mọi chủ trương, chính sách; bảo đảm sự công bằng, bình đẳng của các dân tộc và của mỗi người dân trong tiếp cận các cơ hội phát triển, đóng góp cho sự phát triển đất nước và thụ hưởng thành quả của phát triển.

Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng đoàn kết của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để tập hợp, đoàn kết, phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, tiềm năng, sức sáng tạo của Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu: Tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc để thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

(3) Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá tình hình 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008; thảo luận Báo cáo tổng kết và thống nhất ban hành Nghị quyết với tên gọi Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng cũng thống nhất các quan điểm: Xác định trí thức Việt Nam là nguồn lực lao động chất lượng cao, là lực lượng lao động sáng tạo, có vinh dự và bổn phận tiên phong, trực tiếp tham gia sự nghiệp đổi mới, cống hiến xây dựng, phát triển đất nước; nâng cao dân trí, nhân lực; bồi dưỡng, đào tạo nhân tài trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững; là lực lượng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh cả về số lượng và chất lượng, có cơ cấu hợp lý, có lộ trình và bước đi phù hợp, gắn với phát huy vai trò, trách nhiệm và năng lực của trí thức trong thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị, các hội nghề nghiệp của trí thức và toàn xã hội.

Tôn trọng, phát huy tự do tư tưởng, học thuật, thực hành dân chủ trong hoạt động nghiên cứu sáng tạo; trọng dụng nhân tài, trí thức tinh hoa, nhà khoa học đầu ngành chính là tạo môi trường, điều kiện thuận lợi và động lực căn bản để xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức và phát huy vai trò, vị trí và sự cống hiến của trí thức, thực sự xứng tầm là nguyên khí quốc gia.

Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định:

Mục tiêu đến năm 2030: Phát triển đội ngũ trí thức cả về chất lượng và số lượng; có cơ chế để lắng nghe, giải quyết tâm tư, nguyện vọng chính đáng của đội ngũ trí thức; thường xuyên tổ chức tham vấn, đối thoại, phản biện xã hội, phát huy sự tham gia tích cực, tâm huyết của đội ngũ trí thức, các chuyên gia đầu ngành đóng góp cho tầm nhìn, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...

Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, chuyên gia, nhà khoa học, trí thức đầu ngành, nhất là trong các lĩnh vực then chốt, trọng yếu, lĩnh vực mới gắn với các mục tiêu phát triển đất nước nhanh và bền vững; tập trung xây dựng đội ngũ trí thức trên các lĩnh vực khoa học, ưu tiên nguồn lực, tỉ lệ đầu tư phát triển khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, khoa học lý luận và quản lý, văn hoá nghệ thuật.

Sớm thành lập và xây dựng cơ chế vận hành, điều kiện hoạt động của các trung tâm tích hợp khoa học, công nghệ hiện đại đạt trình độ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới tại 6 vùng kinh tế - xã hội hoặc tập trung tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tăng số lượng, chất lượng công trình khoa học công bố trên các tạp chí trong nước và quốc tế có uy tín; số lượng, chất lượng tạp chí khoa học của Việt Nam đạt trình độ khu vực và quốc tế; công trình phục vụ công nghệ cao của đất nước; sản phẩm văn học, nghệ thuật đỉnh cao.

Tầm nhìn đến năm 2045: Đội ngũ trí thức Việt Nam phát triển có trọng tâm, trọng điểm và trình độ ở một số lĩnh vực, ngành, ngang bằng trí thức các nước phát triển trên thế giới; có nhiều nhà khoa học đạt các giải thưởng uy tín thế giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn học, nghệ thuật; có nhiều tổ chức khoa học và công nghệ, cơ sở giáo dục và đào tạo đạt chuẩn quốc tế, đóng góp quan trọng vào thực hiện mục tiêu Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao./.

 

Theo: https://tcnn.vn/

Trung bình (0 Bình chọn)

 

Số lượng truy cập Số lượng truy cập

Đang truy cập: 7,323
Tổng số trong ngày: 11,619
Tổng số trong tuần: 96,989
Tổng số trong tháng: 148,519
Tổng số trong năm: 2,058,990
Tổng số truy cập: 81,273,837